Dòng sự kiện
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Khoa học, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số: "Chìa khóa vàng" bứt phá ngành Xây dựng, giao thông

Trong giai đoạn phát triển mới, ngành Xây dựng và giao thông đang đứng trước áp lực lớn: Hạ tầng cần hiện đại hơn, đô thị hóa diễn ra chóng mặt, trong khi yêu cầu phát triển xanh, thông minh, bền vững ngày càng cấp thiết. Nhưng chính những thách thức này lại mở ra cơ hội để khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trở thành "chìa khóa vàng" giúp ngành bứt phá.

Bộ Xây dựng thúc đẩy mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số theo tinh thần Nghị quyết 57. Ảnh: Đông Hà

Ngành xây dựng, giao thông là ngành kỹ thuật đặc thù, nơi việc ứng dụng khoa học và công nghệ có ý nghĩa then chốt trong quản lý, nâng cao chất lượng công trình, rút ngắn tiến độ và tiết kiệm chi phí. Nhận rõ tầm quan trọng đó, Đảng ủy Bộ Xây dựng đã xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và ban hành một nghị quyết chuyên đề cùng hai kế hoạch triển khai.

Đột phá từ chính sách đến hành động

Ông Lê Trung Thành, Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ, Môi trường và Vật liệu xây, Bộ Xây dựng cho biết: Chỉ trong vòng chưa đầy một năm, Bộ Xây dựng đã ban hành hàng loạt quyết định, nghị quyết cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 71/NQ-CP của Chính phủ, từ kế hoạch hành động, kế hoạch chuyển đổi số đến cơ chế phối hợp liên ngành. Điểm nhấn lớn nhất là tư duy thể chế được đổi mới mạnh mẽ: Rà soát quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng; thúc đẩy khuôn khổ pháp lý cho mô hình hạ tầng mới như đường sắt tốc độ cao, hệ thống ITS (giao thông thông minh) hay thí điểm cơ chế đặc thù trong quản lý, khai thác công trình.

Không chỉ dừng ở văn bản, Bộ Xây dựng còn kết nối hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, phát triển cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia cho phép quản lý đồng bộ lĩnh vực hạ tầng đường bộ, hàng không, hàng hải, nhà ở và thị trường bất động sản. Đây là bước tiến nền tảng để tạo ra sự minh bạch, tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả quản lý.

Một trong những thay đổi dễ nhận thấy là sự xuất hiện của công nghệ số trong mọi khâu từ khảo sát, thiết kế, thi công đến vận hành công trình. Ở lĩnh vực nhà cao tầng, công nghệ BIM (Building Information Modeling) và mô phỏng số giúp phối hợp thiết kế đa bộ môn, xử lý xung đột kỹ thuật, đồng thời mô phỏng năng lượng để tối ưu giải pháp xanh. Trong thi công, rô bốt xây tường, công nghệ in 3D bê tông, ván khuôn leo tự động hay kết cấu thép lắp ghép bằng cẩu tháp cỡ lớn đã thay đổi hoàn toàn tiến độ và độ chính xác.

Với những cây cầu nhịp lớn, kỹ sư Việt Nam giờ đây đã làm chủ công nghệ từ khảo sát siêu sâu, mô phỏng gió trong hầm khí động học đến thi công bằng robot hàn dưới nước, sử dụng bê tông UHPC và thép cường độ cao.

Hệ thống cảm biến IoT và mô hình Digital Twin giúp theo dõi sức khỏe công trình theo thời gian thực, cảnh báo sớm nguy cơ sự cố.

Trong lĩnh vực đường cao tốc, công nghệ cào bóc tái chế vật liệu, mặt đường nhựa rỗng thoát nước, bê tông xi măng liên tục cốt thép hay ITS với camera, trạm thu phí không dừng đã nâng tầm quản lý khai thác. Tất cả cho thấy bức tranh mới công trình không chỉ xây nhanh, bền vững hơn mà còn “thông minh” và an toàn hơn.

Đi cùng với công nghệ thi công là bước tiến vượt bậc trong sản xuất vật liệu xây dựng. Ngành xi măng ứng dụng công nghệ lò quay hiện đại, buồng phân hủy đốt trước để tăng hiệu suất, đồng thời tận dụng tro bay, xỉ lò cao nhằm giảm phát thải CO₂. Gạch ốp lát và kính xây dựng được sản xuất bằng công nghệ CONTINUA+, lò nung tiết kiệm năng lượng, phủ nano chống bám bẩn, kháng khuẩn.

Những đổi mới này không chỉ tiết kiệm tài nguyên, giảm phụ thuộc vào khai thác cát, đá truyền thống mà còn tạo ra sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Đây chính là “bước ngoặt xanh” trong sản xuất, nền tảng cho phát triển bền vững của ngành.

Điểm nổi bật trong giai đoạn gần đây là vai trò ngày càng lớn của doanh nghiệp. Không chỉ tham gia ứng dụng công nghệ tiên tiến, nhiều doanh nghiệp Việt đã tự tin làm chủ công nghệ xây dựng tòa nhà 55 tầng, cầu dây văng phức tạp, hay đóng tàu chở dầu 100.000 tấn.

Trong công nghiệp đường sắt, doanh nghiệp nội địa đã sản xuất được giá chuyển hướng, toa xe chuyên dụng, tiến tới lắp ráp đầu máy Diesel và chế tạo toa xe thế hệ mới.

Ngành ô tô, hàng hải, hàng không cũng bắt đầu nội địa hóa một số khâu quan trọng, mở ra cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Chuyển đổi số cũng dần đi vào thực chất. Từ xây dựng cơ sở dữ liệu quy hoạch đô thị đến quản lý hạ tầng bằng GIS, BIM, nhiều đơn vị đã bước đầu hình thành “văn hóa số”, coi dữ liệu và công nghệ là công cụ cạnh tranh cốt lõi.

Những nút thắt chưa dễ tháo gỡ

Tuy vậy, bức tranh vẫn còn những gam màu xám. Trong đó, thể chế và chính sách pháp luật về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chưa đồng bộ, nhiều quy định chậm sửa đổi khiến doanh nghiệp gặp khó khi triển khai; không ít dây chuyền, thiết bị trong ngành còn lạc hậu, quy mô nhỏ, phát thải lớn; việc chuyển đổi số ở nhiều doanh nghiệp vẫn chậm, thiếu đồng bộ, chủ yếu dừng ở mức thử nghiệm.

Thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm, giao dịch mua bán công nghệ còn ít, chưa trở thành động lực quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Hoạt động hợp tác nghiên cứu với quốc tế còn ở mức cơ bản, chưa tận dụng hiệu quả các mạng lưới chuyên gia quốc tế cũng như chưa hình thành nhiều dự án hợp tác quy mô lớn.

Đáng chú ý, nguồn lực đầu tư cho khoa học công nghệ chưa tương xứng như tỷ lệ chi so với GDP còn thấp, doanh nghiệp vẫn phụ thuộc nhiều vào ngân sách Nhà nước. Hiện tượng “chảy máu chất xám” cũng khiến ngành thiếu hụt nhân lực mũi nhọn, trong khi số lượng bằng sáng chế, sản phẩm thương mại hóa còn hạn chế

Để bứt phá, Bộ Xây dựng xác định ba hướng trọng tâm. Trước hết là hoàn thiện thể chế, tập trung sửa đổi pháp luật về khoa học công nghệ, tạo cơ chế vượt trội cho các lĩnh vực mũi nhọn và mở rộng cơ chế khoán chi đến sản phẩm cuối cùng.

Tiếp theo là tập trung nghiên cứu ứng dụng, triển khai các đề tài lớn mang tính chiến lược như phát triển đô thị thông minh, giao thông thông minh, vật liệu mới thay thế cát xây dựng, ứng dụng trí tuệ nhân tạo và thiết bị bay không người lái trong khảo sát, dự báo và ứng phó thiên tai.

Song song đó là phát triển nhân lực chất lượng cao, thông qua đặt hàng đào tạo ở các trường đại học, xây dựng các viện nghiên cứu mạnh và ban hành chính sách thu hút, giữ chân nhân tài. Một điểm nhấn quan trọng là thúc đẩy mô hình liên kết “Nhà nước - Viện trường - Doanh nghiệp”, gắn hoạt động nghiên cứu với nhu cầu thị trường, qua đó rút ngắn khoảng cách từ phòng thí nghiệm ra thực tiễn.

Có thể thấy, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số không còn là lựa chọn, mà là con đường bắt buộc để ngành Xây dựng, giao thông Việt Nam bước vào giai đoạn công nghiệp hóa mới. Nếu biết tận dụng, Việt Nam có thể vừa giải quyết nhu cầu hạ tầng, vừa tạo đột phá về năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, đồng thời góp phần thực hiện mục tiêu phát triển xanh, bền vững.

Như Bộ trưởng Xây dựng Trần Hồng Minh từng nhấn mạnh, muốn nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và hội nhập sâu rộng, ngành phải lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm nền tảng. Đó chính là “chìa khóa vàng” để không chỉ bắt kịp, mà còn có thể dẫn dắt xu thế trong một số lĩnh vực, trong đó có ngành xây dựng, giao thông.

"Tôi tin tưởng hoạt động khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số của ngành Xây dựng, giao thông sẽ bứt phá mạnh mẽ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của đất nước", Bộ trưởng Trần Hồng Minh nhấn mạnh.

 


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Bài viết liên quan

Nội dung đang cập nhật...