Giữ nguyên đề xuất áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với đồ uống có đường
Trong dự thảo mới nhất về Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) gửi Bộ Tư pháp thẩm định, Bộ Tài chính tiếp tục đề xuất đánh thuế tiêu thụ đặc biệt với nước giải khát có đường, nước dinh dưỡng và một số sản phẩm khác, trừ sữa...
Tại báo cáo tiếp thu, giải trình và hoàn thiện dự án Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) sửa đổi của Bộ Tài chính gửi xin ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp sau khi tổng hợp ý kiến đóng góp vào dự án Luật, Bộ Tài chính cho biết, đến ngày 11/4, có 100 văn bản tham gia ý kiến cho dự thảo Luật đến từ 16 bộ, 5 cơ quan thuộc Chính phủ, 49 địa phương, 3 tổ chức quốc tế, 1 đại sứ quán, 2 tổ chức phi chính phủ quốc tế, 25 Hiệp hội, doanh nghiệp.
Trong đó, có 35 đơn vị hoàn toàn nhất trí, 65 đơn vị cơ bản nhất trí và có một số ý kiến cụ thể về kết cấu dự thảo báo cáo, câu chữ cho phù hợp quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Cụ thể, nhóm chính sách bổ sung đồ uống có đường vào đối tượng chịu thuế TTĐB có 74 ý kiến nhất trí và 26 ý kiến khác.
Bộ Tài chính giải trình, việc bổ sung thu thuế TTĐB đối với đồ uống có đường là thực hiện theo đúng chủ trương Nhà nước đã nêu tại các Nghị quyết số 07-NQ/TƯ, Nghị quyết số 20-NQ/TƯ…
Tác hại của đồ uống có đường đến sức khỏe con người đã được các tổ chức quốc tế về bảo vệ sức khỏe cộng đồng, Bộ Y tế đưa ra tài liệu chứng minh. Các tổ chức này đều khuyến nghị áp dụng thuế TTĐB đối với đồ uống có đường góp phần giảm tiêu dùng sản phẩm này.
Theo số liệu của WHO, hiện nay có khoảng 85 quốc gia áp dụng thuế đối với đồ uống có đường và việc áp dụng thuế TTĐB đối với đồ uống có đường đã mang lại hiệu quả.
Tại Việt Nam, tỉ lệ hộ gia đình tiêu thụ nước ngọt bình quân đầu người năm 2013 là 47,65 lít/người tăng lên 70,56 lít/người năm 2020.
Vì vậy, Bộ Tài chính đề nghị giữ nguyên đề xuất bổ sung đồ uống có đường vào đối tượng chịu thuế TTĐB.
Liên quan tới một số ý kiến đề nghị loại trừ sữa và sản phẩm từ sữa, đồ uống có giá trị dinh dưỡng; cân nhắc áp dụng biện pháp hạn chế tiêu dùng đối với một số đồ uống có hàm lượng đường cao; quy định khái niệm “đồ uống có đường” tại Luật. Bộ Tài chính cho biết, theo TCVN 12828:2019, nước giải khát là sản phẩm pha sẵn để uống với mục đích giải khát, được chế biến từ nước có thể chứa đường phụ gia thực phẩm, hương liệu. Có thể bổ sung các thành phần nguyên liệu có nguồn gốc từ tự nhiên, vitamin và khoáng chất, có ga hoặc không có ga.
Để tránh trường hợp DN tiếp tục có kiến nghị đối với mặt hàng này, Bộ Tài chính tiếp thu ý kiến theo hướng sửa cụm từ “đồ uống có đường” thành “nước giải khát có đường theo TCVN” vào đối tượng chịu thuế TTĐB. Theo đó, sẽ loại trừ một số mặt hàng không thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB như: sữa; thực phẩm dạng lỏng dùng với mục đích dinh dưỡng; nước khoáng thiên nhiên, nước uống đóng chai; nước rau, quả và nectar (mật) rau, quả và sản phẩm từ cacao.
Đánh thuế thế nào cho hợp lý?
Liên quan tới đề xuất áp thuế TTĐB đối với đồ uống có đường, PGS. TS. Đinh Trọng Thịnh, chuyên gia kinh tế cho rằng, hiện mức tiêu thụ đồ uống có đường tính theo đầu người tại Việt Nam tăng nhanh. Theo Bộ Y tế, có bằng chứng gần đây cho thấy mối liên quan giữa tiêu thụ đồ uống có đường với bệnh không lây nhiễm, gây ra tổn thất kinh tế, gánh nặng chi phí y tế và tỷ lệ tử vong. Đây cũng một trong những nguyên nhân chính gây thừa cân, béo phì với cả trẻ em và người lớn.
“Cần phải điều chỉnh thói quen, nâng cao nhận thức về tiêu dùng đồ uống có đường, giảm thiểu sự tổn thất kinh tế do tăng cân và béo phì và việc phát sinh các bệnh có liên quan, qua đó, giảm gánh nặng chi phí y tế và tỷ lệ tử vong, đảm bảo sự phát triển khỏe mạnh, hài hòa, bền vững của các thế hệ tương lai của đất nước. Theo đó, đề xuất đánh thuế TTĐB với đồ uống có đường của Bộ Tài chính là hoàn toàn hợp lý”, PGS. TS. Đinh Trọng Thịnh nêu quan điểm.
PGS. TS. Đinh Trọng Thịnh cho biết, Việt Nam chưa có thuế TTĐB đánh vào đồ uống có đường, sản phẩm này chỉ chịu ảnh hưởng của thuế GTGT 10%. Trong khi các quốc gia phát triển và có tỷ lệ béo phì cao đều dần thực hiện việc áp dụng thuế TTĐB đối với đồ uống có đường. Nếu năm 2012 chỉ có khoảng 15 quốc gia, thì đến nay đã có ít nhất 67 quốc gia/vùng lãnh thổ đánh thuế đối với đồ uống có đường, trong đó 56 quốc gia áp thuế TTĐB; 9 nước áp thuế nhập khẩu; 2 nước áp thuế hàng hóa và dịch vụ.
Như vậy, đánh thuế TTĐB đối với các sản phẩm đồ uống có đường là một trong những biện pháp hiệu quả để định hướng tiêu dùng, giảm mức tiêu thụ nước ngọt có đường, góp phần dự phòng và kiểm soát các bệnh không lây nhiễm.
"Nếu áp dụng thuế TTĐB đối với đồ uống có đường, sản lượng có thể suy giảm trong một vài năm đầu tiên nhưng sau đó sẽ phục hồi và có thể tiếp tục tăng. Hơn nữa, về bản chất thuế TTĐB là thuế đánh vào người tiêu dùng nhằm điều chỉnh hành vi tiêu dùng, doanh nghiệp chỉ là người nộp hộ thuế cho người tiêu dùng nên ngoài mức suy giảm trong một thời gian ngắn về sản lượng thì các doanh nghiệp trong ngành ít chịu các tác động khác", ông Thịnh đánh giá.
Trong khi đó, TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược thương hiệu và cạnh tranh cho rằng, có 3 lưu ý đối với thuế TTĐB, thứ nhất là có nhiều mục tiêu phải đánh đổi, lựa chọn không dễ, do đó, ưu tiên chính sách phải rất quan trọng. Tiếp theo, đây là một chính sách rất khó, nên đôi khi chính sách dám chấp nhận thử sai. Mà muốn ít thử sai thì phải nghiên cứu rất kỹ. Cuối cùng, cần phải tìm một điểm tối ưu mà ở đó thu thuế là tốt nhất, và vẫn sản xuất kinh doanh được.
Theo ông Thành, mỗi loại thuế đều có ưu điểm và nhược điểm. Hiện một số nước chuyển sang thu thuế hỗn hợp (áp dụng đồng thời phương pháp tính thuế theo tỷ lệ phần trăm và phương pháp tính thuế tuyệt đối và số thuế áp dụng phương pháp tính thuế hỗn hợp được xác định là tổng số thuế theo tỷ lệ phần trăm và số thuế tuyệt đối...) để giảm thiểu tiêu cực. Vì thế, việc áp thuế TTĐB đối với đồ uống có đường, thức uống đại mạch và nước giải khát không cồn vào đối tượng chịu thuế TTĐB và tiếp tục điều chỉnh tăng thuế suất thuế TTĐB đối với rượu, bia cần tính đến thời điểm và trình tự.
"Bản chất câu chuyện thuế là chúng ta đạt mục tiêu, nhưng chấp nhận lĩnh vực đó là lĩnh vực cần thiết cho đời sống. Việc này, theo tôi là cần thời gian nghiên cứu đầy đủ hơn", ông Thành nói, đồng thời cho rằng, nếu áp dụng thì áp dụng vào giai đoạn chuyển tiếp và nên thí điểm, tiến hành một cách thận trọng. Thời gian mà ông Thành đưa ra và cho rằng hợp lý là năm 2026./.
Theo Diệp Diệp
VOV