Thủ công mỹ nghệ Việt Nam hướng tới thị trường toàn cầu 2.394 tỷ USD
Đổi mới thiết kế, chuyển đổi số, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam hướng tới thị trường toàn cầu 2.394 tỷ USD năm 2032.
Sáng 11/12, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam phối hợp với Sở Công Thương tỉnh Ninh Bình tổ chức Hội thảo “Tư vấn hỗ trợ xúc tiến thương mại sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp nông thôn”. Hội thảo là dịp để các doanh nghiệp, cơ sở làng nghề trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Cơ hội vàng từ 5.400 làng nghề và thị trường toàn cầu 1.000 tỷ USD
Theo Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1.007 tỷ USD vào năm 2023, hướng đến con số 1.107 tỷ USD vào năm 2024 và 2.394 tỷ USD vào năm 2032. Việt Nam sở hữu hơn 5.400 làng nghề truyền thống với nguồn nguyên liệu phong phú và đa dạng sản phẩm: mây tre đan, gốm sứ, thêu dệt, đúc đồng, chạm khắc gỗ, trang sức, đá quý… Doanh thu các làng nghề đạt khoảng 75 nghìn tỷ đồng, với tốc độ tăng trưởng dự kiến 8,7% giai đoạn 2024 - 2032, cho thấy ngành còn nhiều dư địa phát triển so với mức tăng trưởng toàn cầu.

Hội thảo “Tư vấn hỗ trợ xúc tiến thương mại sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp nông thôn”. Ảnh: N.H
Thủ công mỹ nghệ luôn nằm trong nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với giá trị gia tăng cao. Cứ 1 triệu USD xuất khẩu các sản phẩm này mang lại lợi nhuận gấp 5 - 10 lần so với nhiều mặt hàng khác, trong khi nguyên phụ liệu nhập khẩu chỉ chiếm 3 - 3,5% giá trị xuất khẩu. Ngành tạo việc làm cho hơn 5 triệu lao động nông thôn và đóng góp đáng kể vào ngoại tệ quốc gia.
Sự phục hồi của ngành du lịch, đặc biệt du lịch quốc tế, trở thành động lực thúc đẩy thủ công mỹ nghệ khi nhiều sản phẩm được sử dụng làm quà lưu niệm, đồng thời quảng bá văn hóa Việt Nam. Xu hướng sử dụng vật liệu tự nhiên và nhu cầu trang trí nhà cửa gia tăng sau đại dịch cũng tạo thêm cơ hội phát triển.
Tuy nhiên, ngành vẫn đối diện nhiều thách thức: các cơ sở quy mô nhỏ, sản xuất tự phát theo vùng, chưa liên kết theo chuỗi giá trị; năng lực thiết kế, đổi mới mẫu mã còn hạn chế; kênh phân phối và thương mại điện tử chưa khai thác hiệu quả; tiêu chuẩn quốc tế chưa đồng bộ, ảnh hưởng khả năng cạnh tranh trên thị trường khó tính.
Ở góc độ địa phương, đại diện Sở Công Thương tỉnh Ninh Bình cho biết, tỉnh sở hữu mạng lưới làng nghề phong phú, với các ngành nghề truyền thống như đá mỹ nghệ, đúc đồng, thêu ren, dệt thủ công, mây tre đan, gỗ mỹ nghệ… Những sản phẩm này không chỉ mang giá trị văn hóa mà còn tạo việc làm, thu nhập cho lao động nông thôn, đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Nhiều doanh nghiệp tại Ninh Bình đã cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, tham gia các chuỗi cung ứng xuất khẩu và tiếp cận thị trường quốc tế. Tuy nhiên, cơ sở, hộ gia đình vẫn chủ yếu hoạt động theo hình thức thủ công, nhỏ lẻ; liên kết chuỗi giá trị hạn chế, gây khó khăn cho việc đáp ứng đơn hàng lớn và ổn định chất lượng. Khả năng sáng tạo sản phẩm, đổi mới mẫu mã còn hạn chế; nhiều sản phẩm vẫn mang tính truyền thống, khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế đòi hỏi tiêu chuẩn cao. Năng lực marketing, thương mại điện tử và kênh phân phối quốc tế của các cơ sở còn hạn chế.
Cần đột phá thiết kế, chuyển đổi số và chính sách đồng bộ
Theo TS. Tôn Gia Hóa, Phó Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, để nâng cao năng lực cạnh tranh, cần quy hoạch làng nghề hợp lý, phát triển thương hiệu, cải tiến mẫu mã và sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời, cơ chế chính sách cần hỗ trợ đồng bộ từ nguyên liệu, sản xuất đến xúc tiến thương mại, kết hợp với các FTA như EVFTA, CPTPP, RCEP… mở rộng cơ hội xuất khẩu.

TS. Tôn Gia Hóa, Phó Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam chia sẻ tại Hội thảo. Ảnh: N.H
TS. Nguyễn Thị Thu Hường, Trường Đại học Mở Hà Nội, nhấn mạnh chính sách trong giai đoạn tới cần chuyển từ hỗ trợ bao cấp sang tăng cường năng lực cốt lõi và ứng dụng công nghệ. Trọng tâm là đột phá về thiết kế, nâng cao giá trị gia tăng; triển khai xúc tiến thương mại trên nền tảng số; minh bạch hóa thủ tục thuế, hải quan để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi. Khi các chính sách được thực hiện đồng bộ từ nguyên liệu, thiết kế đến xúc tiến thương mại số, thủ công mỹ nghệ Việt Nam sẽ khẳng định giá trị thực sự, cạnh tranh trên thị trường quốc tế và phát triển bền vững trong nền kinh tế số.
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ phải đối diện cạnh tranh khắt khe và sự lựa chọn tinh tế của người tiêu dùng. Do đó, cần tạo sự khác biệt, nâng cao đẳng cấp sản phẩm và thể hiện đặc trưng văn hóa khi sản xuất.
Với cơ hội từ các FTA, làn sóng chuyển đổi số và sự phục hồi của ngành du lịch, thủ công mỹ nghệ Việt Nam đang đứng trước thời điểm phát triển bền vững. Các giải pháp bao gồm: nâng cao thiết kế và mẫu mã, ứng dụng chuyển đổi số trong xúc tiến thương mại, minh bạch hóa thủ tục hành chính và hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng xuất khẩu. Khi thực hiện đồng bộ, ngành sẽ đạt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu 5 tỷ USD vào năm 2025, duy trì tăng trưởng đến năm 2030, đồng thời quảng bá hình ảnh văn hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.
TS. Nguyễn Thị Mai Hương, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế phát triển và Quy hoạch
Cả nước hiện có khoảng 5.400 làng nghề và làng có nghề, trong đó riêng tỉnh Ninh Bình sở hữu hơn 250 làng nghề. Hoạt động xúc tiến thương mại đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và cơ sở công nghiệp nông thôn trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ. Việc triển khai hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại sẽ giúp các làng nghề, doanh nghiệp, sản phẩm thủ công mỹ nghệ tiếp cận thị trường rộng lớn hơn, gia tăng giá trị kinh tế bền vững và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương.




