Đột phá phát triển nhân lực để thu hút nhiều hơn đầu tư FDI
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam nửa đầu năm 2025 giữa biến động địa chính trị và thương mại toàn cầu vẫn đạt kết quả rất tích cực, thể hiện sức hút vững vàng của Việt Nam. Tuy nhiên, điểm sáng trong bức tranh FDI vẫn đổ dồn về các địa bàn truyền thống.
TS. Đặng Thảo Quyên - Chủ nhiệm cấp cao Bộ môn Kinh doanh quốc tế (Đại học RMIT Việt Nam) cho rằng, để thu hút thêm FDI chất lượng cao, cần một cách tiếp cận toàn diện, dựa trên những trụ cột như thể chế minh bạch, hạ tầng hiện đại và dặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao.

Thu hút vốn FDI của Việt Nam nửa đầu năm 2025 vẫn đạt kết quả rất tích cực (Ảnh minh họa).
Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Tài chính), tính đến hết tháng 6/2025, tổng vốn FDI vào Việt Nam đạt hơn 21,51 tỷ USD, tăng 32,6% so với cùng kỳ, là mức cao nhất kể từ năm 2009. Tuy vậy, nhìn vào bức tranh FDI trong 6 tháng đầu năm có thể thấy, việc phân bổ đầu tư vẫn chưa đồng đều giữa các địa phương. Vốn FDI đổ dồn về một số nơi vẫn là tình trạng hiện hữu từ lâu.
Hiện nay, dòng vốn FDI vẫn tập trung chủ yếu ở một số địa bàn có lợi thế. Cụ thể, có 6 địa phương (trước sáp nhập) dẫn đầu như: Hà Nội, Bắc Ninh, TPHCM, Đồng Nai, Hà Nam, Bà Rịa - Vũng Tàu đã thu hút tới 62,4% tổng vốn FDI và chiếm trên 64,7% số sự án mới của cả nước trong 6 tháng đầu năm 2025.
Trong đó, Hà Nội dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 3,66 tỷ USD, chiếm 17% tổng vốn đầu tư cả nước, gấp hơn 2,8 lần cùng kỳ. Bắc Ninh đứng thứ hai với gần 3,15 tỷ USD, chiếm 14,6% tổng vốn đầu tư đăng ký, tăng 7,1% so với cùng kỳ. TPHCM đứng thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 2,7 tỷ USD, chiếm 12,6% tổng vốn đầu tư cả nước, tăng 2,2 lần so với cùng kỳ…
Theo đánh giá của các chuyên gia, trong bối cảnh toàn cầu còn nhiều bất ổn, đặc biệt là căng thẳng địa chính trị và xu hướng bảo hộ thương mại, kết quả này của Việt Nam là rất đáng ghi nhận. Điều này cũng phản ánh niềm tin ngày càng tăng của nhà đầu tư nước ngoài vào môi trường đầu tư tại Việt Nam.
Khẳng định điều này, ông Nguyễn Văn Toàn - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp FDI (VAFIE) cho biết, sở dĩ các tỉnh, thành phố trên chiếm ưu thế trong thu hút FDI là nhờ có cơ sở hạ tầng tốt, nguồn nhân lực ổn định, môi trường kinh doanh thông thoáng và chính quyền năng động trong công tác xúc tiến đầu tư…
Ngược lại, nhiều địa phương khác (nhất là vùng sâu, vùng xa hoặc các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long) còn khó khăn về kết nối giao thông, chất lượng lao động và thủ tục hành chính, nên kém hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư công nghiệp. Đơn cử, với Đồng bằng sông Cửu Long, nhiều ý kiến của các nhà đầu tư nước ngoài chỉ ra rằng, hạn chế về hạ tầng (giao thông đường bộ, đường thủy chưa đáp ứng nhu cầu) chính là “nút thắt” chính cản trở thu hút FDI.

Thu hút vốn FDI của Việt Nam nửa đầu năm 2025 vẫn đạt kết quả rất tích cực (Ảnh minh họa).
Để khắc phục tình trạng “vốn FDI dồn về một số nơi” và mở rộng thu hút FDI ra các địa phương chưa phát triển, theo Phó Chủ tịch VAFIE, cải cách thể chế và nâng cao năng lực quản lý địa phương và phát triển nhân lự cao là yếu tố then chốt. Việc triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp từ tháng 7/2025 là cơ hội để phân cấp rõ ràng, giảm thủ tục hành chính và tăng tính minh bạch.
Các địa phương cần chủ động xây dựng chiến lược thu hút FDI riêng, gắn với quy hoạch phát triển vùng và ngành. Đồng thời, chính quyền trung ương cần có chính sách chiến lược tổng thể, trong đó tổng hợp lợi thế riêng biệt của từng địa phương, hạn chế sự cạnh tranh mà thay vào đó có thể bổ sung, hỗ trợ cho nhau.
Tương tự, TS. Đặng Thảo Quyên, Chủ nhiệm cấp cao Bộ môn Kinh doanh quốc tế (Đại học RMIT Việt Nam) khẳng định cần quan tâm phát triển lực lượng lao động. Một số doanh nghiệp FDI vẫn tận dụng lao động giá rẻ mà không đầu tư đào tạo, gây áp lực lên ngân sách nhà nước và hạn chế chuyển giao tri thức.
“Việt Nam cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào đào tạo, đồng thời bảo vệ quyền lợi người lao động để tạo nền tảng cho tăng trưởng dài hạn. Đồng thời, về phía Việt Nam, cũng cần tập trung vào đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao và nhân lực có tư duy và kĩ năng của công dân toàn cầu để đáp ứng nhu cầu của các công ty FDI”, bà Quyên nói.
Để tạo ra đột phá trong phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, TS. Trần Toàn Thắng - Trưởng ban Ban Quốc tế và chính sách hội nhập, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính (NIEF), Bộ Tài chính cho rằng, cần thúc đẩy mô hình hợp tác chiến lược “Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp FDI” một cách thực chất.
Khuyến khích các tập đoàn công nghệ lớn tham gia sâu vào quá trình xây dựng chương trình đào tạo, tài trợ phòng thí nghiệm và tiếp nhận sinh viên thực tập. Đồng thời, có chính sách đột phá để thu hút và giữ chân các tài năng công nghệ.
Cùng với đó là phát triển hạ tầng đồng bộ và khu công nghiệp thế hệ mới. Theo Bộ Tài chính, nhiều khu công nghiệp hiện nay hoạt động kém hiệu quả hoặc chưa thu hút được nhà đầu tư thứ cấp. Do đó, cần tối ưu hóa quỹ đất, đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ hỗ trợ, đặc biệt là logistics và năng lượng sạch, để đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư công nghệ cao.
Cũng tập trung nhấn mạnh phát triển nguồn nhân lực cần quan tâm hàng đầu, ông Phạm Quang Long- Giám đốc Kinh doanh Công ty Allied Movers (Hoa Kỳ) tại Việt Nam cho rằng, yếu tố lao động và hệ sinh thái doanh nghiệp bản địa có vai trò quyết định trong thu hút FDI lâu dài. Nhiều địa phương chưa hút được dự án công nghệ cao do thiếu lao động có kỹ năng phù hợp cũng như chưa hình thành mạng lưới nhà cung cấp hỗ trợ cho nhà đầu tư.
Do đó, cần đẩy mạnh đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nhân lực tại chỗ thông qua việc gắn kết doanh nghiệp với các trường đại học, cao đẳng ở địa phương, đáp ứng đúng nhu cầu của nhà đầu tư. Nguồn nhân lực dồi dào và doanh nghiệp hỗ trợ sẵn có tại chỗ sẽ giúp các tỉnh kém phát triển “ghi điểm” trong mắt nhà đầu tư khi so sánh với các địa bàn truyền thống.
Bên cạnh đó, ông Long nhấn mạnh về các chính sách ưu đãi và xúc tiến đầu tư hướng vùng. Theo ông, Chính phủ có thể nghiên cứu cơ chế ưu đãi đặc thù cho các địa phương khó khăn nhằm tạo sức hút riêng. Ví dụ, ưu đãi thuế cao hơn, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, giảm tiền thuê đất, hoặc gói hỗ trợ đào tạo lao động cho dự án đầu tư tại các tỉnh vùng sâu.
Các chính sách hỗ trợ cần linh hoạt, bền vững và phù hợp với tiềm năng của từng địa phương, đây cũng chính là định hướng mà các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đang kiến nghị. Đặc biệt, hoạt động xúc tiến đầu tư cần đổi mới theo hướng “may đo” cho địa phương.
“Khi điểm nghẽn hạ tầng được tháo gỡ, nhân lực và thể chế được cải thiện, lại cộng thêm ưu đãi hợp lý, các địa phương mới nổi hoàn toàn có thể “bứt phá” thu hút FDI, giảm tải cho các trung tâm truyền thống và tạo phát triển cân bằng giữa các vùng” - ông Long nhận định.




