Bài 2: Kinh tế số và đô thị thông minh tạo lực mới cho chuyển đổi số Việt Nam
Chuyển đổi số đang trở thành chiến lược trọng tâm của Việt Nam, trong đó kinh tế số và đô thị thông minh là hai trụ cột then chốt. Với sự hỗ trợ của công nghệ, dữ liệu và hạ tầng viễn thông hiện đại, các thành phố Việt Nam đang hướng tới mô hình quản lý thông minh, minh bạch, đồng bộ và lấy người dân làm trung tâm.

Dự án IOC Huế là dự án smart city đầu tiên của Việt Nam đạt giải "Dự án Thành phố thông minh sáng tạo nhất châu Á". Ảnh: IT
Kinh tế số đang trở thành động lực quan trọng
Kinh tế số tại Việt Nam tăng trưởng nhanh và đang trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế. Theo Tổng cục Thống kê (Bộ Tài chính) năm 2024, kinh tế số chiếm hơn 13,17% GDP, với tốc độ tăng trưởng hơn 14% so với năm trước; tại Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ trọng kinh tế số trong GRDP đạt 21,5% năm 2023 và dự kiến 25% vào năm 2025.
Các ngành lõi của kinh tế số, bao gồm sản xuất điện tử, phần mềm, viễn thông, chiếm hơn 60% tổng giá trị. Sự phát triển kinh tế số không chỉ tăng doanh thu mà còn tạo cơ sở hạ tầng quan trọng cho đô thị thông minh, từ hệ thống IoT, trung tâm điều hành thông minh (IOC) đến nền tảng dữ liệu dùng chung.
Trước đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 82/2024/NĐ-CP ngày 10/7/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 73/2019/NĐ-CP ngày 5/9/2019 của Chính phủ quy định quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
Nghị định số 82 cũng nhằm tạo cơ chế hỗ trợ mạnh mẽ và tháo gỡ điểm nghẽn trong đầu tư công nghệ thông tin, quy định rõ trách nhiệm bảo trì, vận hành và khuyến khích thuê dịch vụ công nghệ thông tin để tối ưu chi phí và hiệu quả.
Chuyển đổi quản trị nhờ công nghệ thông tin
Chính phủ đã xây dựng chiến lược phát triển đô thị thông minh đến 2030, với mục tiêu hơn 1.000 đô thị đạt chuẩn số hóa và quản trị thông minh. Theo đó, hạ tầng viễn thông, đặc biệt là mạng 5G được chú trọng để hỗ trợ IoT, dữ liệu thời gian thực và trung tâm điều hành (IOC).
Quy hoạch phổ tần số cho 5G tại Quyết định 37/2025/QĐ-TTg nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư trạm phát sóng, nâng cao chất lượng dịch vụ và tạo nền tảng vững chắc cho các thành phố số.
Bên cạnh đó, dữ liệu lớn là cơ sở để ra quyết định thời gian thực, từ quản lý giao thông, chiếu sáng, năng lượng, môi trường đến cảnh báo thiên tai. Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh hiện cũng đã triển khai các nền tảng dữ liệu đồng bộ, kết nối liên ngành và bảo đảm an toàn, bảo mật.
Người dân được đặt làm trung tâm trong quản lý đô thị thông minh. Ví dụ, thành phố Huế đã triển khai hệ thống phản ánh hiện trường, cảnh báo thiên tai và dịch vụ tương tác số với người dân. Người dân thành phố Huế cho rằng, sử dụng tính năng Phản ánh hiện trường trên ứng dụng Hue-S bằng những thao tác đơn giản, những phản ánh, kiến nghị của người dân gửi đến các cơ quan nhà nước thường một cách nhanh chóng.
Mới đây, ứng dụng iHanoi ra mắt tính năng Mạng xã hội cộng đồng nhiều tiện ích. Theo Trung tâm phục vụ hành chính công thành phố Hà Nội, khác với các nền tảng thông thường, tính năng Mạng xã hội Cộng đồng trên iHanoi được xây dựng với mục đích kết nối trực tiếp giữa người dân và các cơ quan hành chính công. Tại đây, người dân có thể theo dõi thông tin chính thống từ các cơ quan Nhà nước, đồng thời cập nhật nhanh chóng các tin tức về chính sách, thủ tục hành chính và sự kiện địa phương.
Từ các ứng dung trên cho thấy, nhờ có công nghệ thông tin đã góp phần tạo dựng “thói quen số” đến toàn xã hội, để mỗi người dân thật sự là chủ thể trong tiến trình hướng đến mục tiêu làm cho chất lượng cuộc sống được nâng cao, quản lý đô thị tinh gọn, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.
Các IOC giúp kết nối các ban ngành, giám sát, phân tích dữ liệu theo thời gian thực và ra quyết định nhanh chóng. Đây là trái tim của đô thị thông minh, nơi công nghệ thông tin biến dữ liệu thành hành động như điều tiết giao thông, cảnh báo lũ lụt, tối ưu chiếu sáng và tiết kiệm năng lượng.
Vì mục tiêu chất lượng sống của người dân
Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam dự kiến có hơn 1.000 đô thị thông minh, tỷ lệ đô thị hóa vượt 50%; làm chủ công nghệ chiến lược: AI, 5G, blockchain, robot tự hành; tích hợp dữ liệu dùng chung, hạ tầng mạng mạnh, IOC tại nhiều địa phương; phát triển nguồn lực con người, kỹ năng số, thúc đẩy R&D và thu hút đầu tư quốc tế; đưa người dân vào trung tâm quản trị, xây dựng dịch vụ số tiện lợi, minh bạch và thân thiện.

Hạ tầng mạng 5G được xây dựng với công nghệ tiên tiến, mang đến tốc độ kết nối vượt trội. Ảnh: Viettel Telecom
Việt Nam hiện được đánh giá là có lợi thế về quyết tâm chính trị và mô hình hợp tác công - tư (PPP). So với các quốc gia khác, Việt Nam chú trọng đổi mới sáng tạo, đặt con người làm trọng tâm và triển khai cơ sở hạ tầng số từ đầu.
Các dự án đô thị thông minh tại Việt Nam cũng kết hợp nguồn lực công - tư đã thu hút startup, doanh nghiệp công nghệ và vốn quốc tế, tạo mô hình linh hoạt và bền vững.
Tuy nhiên vẫn nổi lên là các thách thức như liên thông dữ liệu liên ngành và liên tỉnh cần cơ chế phối hợp hiệu quả để tránh phát triển riêng lẻ; an ninh mạng và bảo mật dữ liệu phải nâng cấp hệ thống và khung pháp lý để bảo vệ quyền riêng tư; nguồn nhân lực công nghệ cần được đào tạo như kỹ sư, chuyên gia, nhà nghiên cứu để đáp ứng yêu cầu AI, IoT, 5G.
Tiếp tục có cơ chế ưu đãi, PPP và khuyến khích đầu tư để duy trì IOC, hạ tầng mạng và nền tảng dữ liệu. Đồng thời, phát triển bền vững kết hợp quản lý môi trường, năng lượng xanh, chống chịu thiên tai để đảm bảo đô thị thông minh lâu dài.
Kinh tế số và đô thị thông minh đang trở thành trụ cột chiến lược của Việt Nam. Khi triển khai đồng bộ, công nghệ thông tin sẽ giúp chính quyền hiệu quả, minh bạch và nâng cao chất lượng sống của người dân nếu phương tiện di chuyển thông minh hơn, môi trường sạch hơn, dịch vụ công thuận tiện hơn.
Với quyết tâm chính trị, đầu tư hạ tầng số, dữ liệu quốc gia và nguồn nhân lực công nghệ, Việt Nam hoàn toàn có thể biến đô thị thông minh từ mô hình lý thuyết thành thực thể sống, hiện đại, kết nối và bền vững vào năm 2030.




