|
  • :
  • :
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Lý do 69% doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động do dịch Covid-19

69% doanh nghiệp (DN) tạm ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh do dịch, trong đó, có tới 45% DN cho biết “không dự tính được” thời gian phải đóng cửa bao lâu.

Ban nghiên cứu Phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV thuộc Hội đồng tư vấn Cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ) vừa công bố khảo sát nhanh về tình hình việc làm, thu nhập của người lao động và tình hình sức khỏe tài chính của DN trong bối cảnh đại dịch Covid-19 từ tháng 5/2021 đến tháng 8/2021 với trên 21.517 DN, hộ kinh doanh tham gia.

Nhiều doanh nghiệp đóng cửa, không 'hẹn' ngày trở lại

Kết quả cho thấy, tỷ lệ số DN “tạm ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh do dịch” chiếm tỷ lệ cao nhất là 69%. Số DN cố gắng “duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh” mặc dù không thể hoạt động toàn công suất chiếm 16%. Số DN “giải thể/ngừng hoạt động kinh doanh chờ giải thể” là 15% (tương đương với 3.272 DN).

Trong số 14.890 DN trả lời “tạm thời ngừng hoạt động trong bối cảnh dịch”, gần 32,5% DN là diện “tự nguyện ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh chờ hết đợt dịch bùng phát”, gần 2,5% DN “buộc phải đóng cửa do có người bị nhiễm Covid-19 (F0)”, hơn 6% DN buộc phải ngừng hoạt động theo yêu cầu khi áp dụng Chỉ thị 15, Chỉ thị 16/16+ của các tỉnh/thành phố nơi DN đăng ký hoạt động.

ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng chính của tỉnh Quảng Ninh trong những tháng đầu năm 2021
Dịch Covid-19 tác động mạnh mẽ lên hoạt đồng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp

Lý do khiến nhiều DN phải đóng cửa tạm thời nhiều nhất là do đứt gãy chuỗi cung ứng ngay trong nước, tỷ lệ này là chiếm tới 35,4%. Do việc thực hiện phong tỏa, cách ly/giãn cách tại nhiều tỉnh/thành phố, đặc biệt là khi dịch bùng phát, các văn bản chỉ đạo của nhiều tỉnh/thành phố, chính quyền địa phương chỉ cho phép “hàng thiết yếu” được lưu thông qua địa bàn, các chốt chặn, kiểm tra được dựng lên trên khắp cung đường với các điều kiện đối với lái xe, hàng hóa được lưu thông khác nhau, điều này đã tạo ra rất nhiều bất cập trên thực tế vì khái niệm “hàng thiết yếu” được các cấp thực thi ở mỗi địa phương/địa bàn hiểu một kiểu. Ngay cả khi có văn bản chỉ đạo của Chính phủ cho phép hàng hóa được phép lưu thông “trừ hàng cấm” thì các địa phương vẫn mỗi nơi đưa ra một quy định, hướng dẫn khác nhau khiến việc lưu thông hàng hóa hết sức khó khăn.

Bên cạnh đó, tỷ lệ DN “buộc phải đóng cửa do không đáp ứng được các yêu cầu về phòng chống dịch của địa phương” cũng chiếm tới hơn 21%. Điều này góp phần làm tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng, sản xuất trong nước trầm trọng hơn, vì các DN không thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh để thực hiện các đơn hàng cho các DN khác.

Đơn cử, nhiều DN sản xuất hàng may mặc tại miền Bắc, trước khi dịch bùng phát từ tháng 5/2021, thì nguồn nguyên phụ liệu cho ngành may được cung cấp chủ yếu bởi các DN hoạt động sản xuất kinh doanh tại TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, hoặc Đồng Nai. Khi dịch bùng phát tại các tỉnh/thành phố phía Nam, nhiều DN phải đóng cửa, các DN miền Bắc bị mất nguồn cung ứng nguyên phụ liệu dẫn tới tình trạng buộc phải đóng cửa tạm thời chờ đối tác khôi phục lại sản xuất hoặc chờ có nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu để thay thế.

Về việc “dự kiến đóng cửa tạm thời trong bao lâu”, tỷ lệ cao nhất trong số các lựa chọn trả lời là gần 45% DN cho biết “không dự tính được”. Điều này cho thấy các DN hiện khá bị động, không thể dự tính được các kế hoạch sử dụng lao động, đặt nguyên liệu hay các kế hoạch khác dù trong ngắn hạn. Khoảng 28,5% DN cho biết họ dự tính tạm đóng cửa “1-3 tháng”. Tỷ lệ DN lạc quan nhất có thể lượng hóa được thời gian dự kiến đóng cửa chỉ “trong vòng 2 tuần” hoặc tỷ lệ DN bi quan nhất với dự kiến đóng cửa “hơn 6 tháng” đều vào khoảng 2,5%. Tỷ lệ DN dự kiến đóng cửa “trong vòng 4 tuần” hay phải đóng cửa trong vòng “3-6 tháng” là hơn 10%.

Tháng 9/2021- thời điểm mang tính chất “quyết định”

Dòng tiền của DN được ví như “máu” của DN. Tuy nhiên, tỷ lệ DN “tạm ngừng hoạt động do dịch” chỉ còn dòng tiền giúp DN duy trì hoạt động “ít hơn 1 tháng” chiếm khá cao, gần 40% và gấp 2,5 lần tỷ lệ này (17,7%) ở các DN đang “duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh”.

Trong đó, hộ kinh doanh là đối tượng dễ tổn thương nhất với 45% số hộ trả lời có dòng tiền duy trì hoạt động “ít hơn 1 tháng”; tỷ lệ này theo loại hình DN tư nhân, công ty TNHH và công ty cổ phần của Việt Nam là 39,5%; ở loại hình DN nhà nước là 30%; còn các DN có vốn đầu tư nước ngoài là khoảng 23,5%. Điều này cho thấy nếu các DN tiếp tục phải đóng cửa dài hơn 1 tháng mà không có sự hỗ trợ từ bên ngoài, thì khả năng giải thể là rất cao.

Tỷ lệ DN có dòng tiền hiện tại có thể giúp duy trì hoạt động từ 1 đến dưới 3 tháng là tương đồng giữa nhóm DN “Tạm ngừng hoạt động do dịch” và nhóm DN phần nào đang “duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh”, đều quanh mức 46%. Con số này có thể có hàm ý, DN “tạm ngừng hoạt động do dịch” có thể tiếp tục tồn tại hay không phụ thuộc khá nhiều vào khả năng được phép hoạt động trở lại hay không.

Nếu nhóm DN đang “tạm ngừng hoạt động do dịch” lại chỉ có dòng tiền đủ để duy trì hoạt động từ “1 đến dưới 3 tháng” mà vẫn tiếp tục ở trong các khu vực đang thực hiện cách ly/giãn cách thì xác suất các DN này rơi vào nhóm giải thể là cũng rất cao vì họ không có nguồn tiền từ bên ngoài bổ sung dưới mọi hình thức. Vì thế, thời điểm tháng 9/2021 có thể xem là thời điểm mang tính chất “quyết định” để “cứu nguy” cho hai nhóm DN nêu trên nếu chính quyền có thể hỗ trợ DN vận hành trở lại hoạt động hoặc tự thân các DN tổ chức được sản xuất, kinh doanh.

Trước tình hình trên, các DN vẫn tập trung phần lớn kiến nghị vào các vấn đề thuế, phí, lệ phí và lãi vay ngân hàng. Đề xuất các chính sách liên quan được thiết kế theo hướng nhà nước hỗ trợ, phối hợp với DN trả lương cho người lao động phải tạm nghỉ do dịch; đôn đốc, kiểm soát tốc độ giải ngân để gói hỗ trợ đến được với người dân và DN nhanh nhất có thể; có chính sách hỗ trợ DN tiếp cận được nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi để phục hồi sản xuất kinh doanh;…

Bên cạnh đó, để duy trì và đảm bảo an toàn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, các DN đề xuất cần tập trung các giải pháp để đảm bảo chuỗi cung ứng vận hành thông suốt, hỗ trợ DN thực hiện các đơn hàng xuất khẩu, tránh để bị phạt do chậm cung ứng hoặc bị hủy đơn hàng, mất khách hàng, mất thị trường và theo đó khó có thể phục hồi sau dịch.

Nghiên cứu xây dựng thêm các mô hình sản xuất kinh doanh an toàn (như mô hình vùng xanh kinh tế) để DN tùy đặc điểm tình hình có thể chủ động, linh hoạt lựa chọn và áp dụng trong bối cảnh việc duy trì mô hình “3 tại chỗ” kéo dài hiện quá tốn kém và không giữ chân được người lao động do các vấn đề về tâm lý, đời sống....

Nguyễn Hạnh


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết