Đảm bảo an ninh nguồn nước từ giải pháp liên kết vùng, quốc gia
Cần thực hiện các giải pháp liên vùng, liên quốc gia để điều phối hài hòa, đảm bảo an ninh nguồn nước vùng đồng bằng sông Cửu Long và lưu vực sông Mê Kông.
Những năm gần đây, tài nguyên nước đến đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã có nhiều diễn biến và thay đổi. Theo đánh giá của Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam, tổng lượng dòng chảy trung bình năm về ĐBSCL giai đoạn 2010 - 2020 đã sụt giảm khoảng 8% so với giá trị trung bình nhiều năm; hiện tượng xâm nhập mặn có xu hướng xuất hiện sớm hơn, với phạm vi và cường độ lớn hơn ranh mặn 4g/l vào sâu từ 50 - 60km, đặc biệt trong mùa khô năm 2016 và 2020, chiều sâu xâm nhập mặn đã lên tới 90km.
Nguyên nhân chính của hiện tượng này được xác định là do tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và sự gia tăng mức độ, quy mô sử dụng nước trong lưu vực.
Dự báo trong những năm, tài nguyên nước về ĐBSCL sẽ tiếp tục phải đối mặt với những thách thức nêu trên. Bao gồm, các quốc gia vùng thượng nguồn sông Mê Kông tiếp tục triển khai thực hiện các kế hoạch khai thác sử dụng tài nguyên nước phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế của mình, bao gồm phát triển thủy điện dòng chính và dòng nhánh, mở rộng diện tích tưới nông nghiệp, chuyển nước ra khỏi lưu vực… Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu sẽ làm những hiện tượng thời tiết cực đoan trở nên gay gắt hơn, hạn hán và lũ lụt xảy ra thường xuyên hơn, phạm vi, cường độ của xâm nhập mặn cũng sẽ ngày càng lớn hơn.
Đảm bảo an ninh nguồn nước, quản lý hài hòa tài nguyên nước khu vực ĐBSCL từ giải pháp liên vùng, liên quốc gia
Giải pháp đưa ra để ứng phó với những khó khăn, thách thức đối với tài nguyên nước vùng ĐBSCL là cần tiến hành theo cấp vùng và cấp quốc gia.
Cụ thể, về cấp vùng, Việt Nam cần tiếp tục thúc đẩy hợp tác với các quốc gia thành viên Ủy hội sông Mê Kông quốc tế nhằm thực hiện hiệu quả Hiệp định Mê Kông 1995 và Bộ quy chế sử dụng nước; tăng cường chia sẻ thông tin số liệu; tăng cường hệ thống quan trắc, đo đạc dòng chảy, phù sa, bùn cát, thủy sản, môi trường sinh thái và chất lượng nước sông Mê Kông, đặc biệt là mạng lưới giám sát tác động thực tế của các công trình thủy điện dòng chính; xây dựng và phát triển các công cụ hỗ trợ, cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quy hoạch, dự báo, cảnh báo tác động của các hoạt động phát triển đến tài nguyên nước của lưu vực.
Đồng thời, cần phối hợp với các quốc gia Ủy hội thúc đẩy hợp tác với Trung Quốc và Myanmar thông qua cơ chế hợp tác Mê Kông - Lan Thương và cơ chế đối thoại giữa các bên để đẩy mạnh công tác chia sẻ thông tin, số liệu sau đó tiến tới cùng nhau nghiên cứu xây dựng quy trình vận hành liên hồ chứa và cơ sở dữ liệu dùng chung toàn lưu vực. Từ đó đảm bảo sử dụng nước công bằng hợp lý giữa các quốc gia ven sông; tiến hành nghiên cứu chung về các nguyên nhân gây ra hạn hán, lũ lụt trên lưu vực, làm cơ sở đề xuất, thống nhất các giải pháp giảm thiểu tác động, chủ động ứng phó.
Ở cấp quốc gia, cần tiếp tục theo dõi và cung cấp thông tin kịp thời về các diễn biến dòng chảy sông Mê Kông và các nhận định, dự báo, cảnh báo về tình hình tài nguyên nước về ĐBSCL; hoàn thành và thực thi các quy hoạch tổng hợp lưu vực sông và các quy hoạch chuyên ngành khác.
Ngoài ra, các địa phương vùng ĐBSCL cũng cần chủ động về kế hoạch ứng phó khi có dự báo, cảnh báo về biến đổi nguồn nước từ thượng nguồn tới đồng bằng như kế hoạch về mùa vụ, cơ cấu cây trồng, kế hoạch trữ nước, duy tu bảo dưỡng công trình cấp nước, điều tiết nước; chủ động trong phối hợp, điều phối giữa các địa phương, đặc biệt cần chú ý mối quan hệ thượng – hạ nguồn, hài hòa lợi ích giữa các địa phương; tăng cường nâng cao nhận thức cho người dân về sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả.
Phương An (T/H)